Theo ông Phạm Nam Phong, Phó Tổng Giám đốc Dịch vụ Kiểm toán & Đảm bảo, Deloitte Việt Nam, việc triển khai Đề án áp dụng IFRS tại Việt Nam không chỉ là cải cách kế toán mà còn là chiến lược nhằm tái cấu trúc nền tảng quy định về tài chính, nâng cao tính minh bạch và khả năng tiếp cận vốn quốc tế.
Quyết định số 2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 12/9/2025 (Quyết định 2014) đã xác định nhóm các nhiệm vụ, giải pháp hỗ trợ về dài hạn cho mục tiêu nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam trong đó có việc triển khai Đề án áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế, khuyến khích các doanh nghiệp (DN) niêm yết quy mô lớn thực hiện công bố BCTC theo chuẩn BCTC quốc tế (IFRS).
Việc triển khai Đề án này, trong đó cho phép DN áp dụng nguyên mẫu IFRS, được coi là sự chuyển đổi sang mô hình “kép” của kế toán Việt Nam. Mở ra không gian phát triển mới, khi có lựa chọn quốc tế cho DN, bước đi này sẽ hỗ trợ mục tiêu nâng cao tính minh bạch trên thị trường chứng khoán, tạo thêm động lực mới cho tăng trưởng và hội nhập kinh tế quốc tế theo một lộ trình bền vững.
Ông nhận xét chung như thế nào về nhiệm vụ triển khai Đề án áp dụng IFRS, khuyến khích các DN niêm yết quy mô lớn thực hiện công bố BCTC theo chuẩn IFRS theo Quyết định 2014 trong thời gian tới?
Tôi đánh giá việc triển khai Đề án này trong thời gian tới là một bước tiến lớn về thể chế cho phép hệ thống thông tin kế toán, tài chính DN Việt Nam vươn lên ngang tầm với thế giới khi cùng được xây dựng trên một “mặt bằng” là IFRS. Khi đáp ứng tiêu chí nhất định của cơ quan quản lý, DN sẽ được phép tự quyết định lựa chọn áp dụng IFRS cho việc lập BCTC cho mục tiêu luật định ở Việt Nam (VN) dựa trên chính nhu cầu, nguồn lực của DN theo đúng nguyên tắc thị trường.
Nếu VFRS – chuẩn mực VAS được nâng cấp toàn diện theo định hướng tiệm cận IFRS cần một quá trình phát triển mang tính toàn diện, căn bản và lâu dài thì việc cho phép áp dụng ngay IFRS sẽ là bước “đi tắt, đón đầu” khác biệt.Đây là điểm tích cực tạo thế sẵn sàng cho DN VN hội nhập sâu rộng vào sân chơi quốc tế, tăng cường niềm tin của nhà đầu tư, nâng cao hình ảnh và vị thế của quốc gia và DN, đồng thời mở rộng, thu hút vốn đầu tư quốc tế với chi phí rẻ hơn cũng như giúp nâng cao năng lực quản trị DN, tính minh bạch của thị trường dựa trên thông tin với chất lượng đạt chuẩn quốc tế.
Một nội dung cốt lõi trong việc triển khai áp dụng nguyên mẫu IFRS ở Việt Nam là xác định đối tượng được phép áp dụng. Vậy theo ông, có thể là các nhóm DN nào?
Đây chính là nội dung quan trọng đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới có mong muốn triển khai nguyên mẫu IFRS. Thay vì áp dụng tràn lan, sự định hướng chính sách có chủ đích nhằm bảo vệ tính toàn vẹn của thị trường, tạo ra “hình mẫu” có chất lượng báo cáo IFRS cao, dẫn dắt cộng đồng DN, giúp quá trình triển khai diễn ra bền vững, hiệu quả và nhận được sự đồng thuận rộng rãi.
Dựa trên kinh nghiệm quốc tế và thống kê của Hội đồng Chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB), nhóm đối tượng được phép áp dụng IFRS theo lộ trình tại Quyết định 345 ngày 16/3/2020 của Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt Đề án áp dụng chuẩn mực BCTC tại Việt Nam (Đề án 345) sẽ được cân nhắc và có thể điều chỉnh phù hợp với bối cảnh mới. Các đối tượng này có thể là các nhóm sau đây và cần phải đáp ứng được tiêu chí quy mô ở mức cao nhất định (doanh thu, giá trị vốn hóa, vị trí dẫn dắt trong ngành…):
Số lượng DN niêm yết và đại chúng của VN hiện nay là tương đối lớn nên cần tiêu chí định lượng để bảo đảm năng lực triển khai và giám sát. Cá nhân tôi kỳ vọng kết quả sẽ có khoảng 150-300 DN được cho phép áp dụng IFRS, trong đó khoảng 50-70% sẽ thực sự triển khai trong vòng 3 năm sau thời điểm cho phép áp dụng khi triển khai Đề án. Điều quan trọng không phải là số lượng mà là chất lượng triển khai khi xét đến ảnh hưởng lan tỏa thể hiện ở giá trị vốn hóa và vị trí dẫn dắt ngành của DN áp dụng IFRS.
Ông có thể chia sẻ thêm về các thách thức khi triển khai Đề án áp dụng IFRS này để tăng tính minh bạch trên thị trường cũng như bắt kịp với cộng đồng quốc tế?
Được ban hành từ năm 2001 đến năm 2005 và tiếp đó là các văn bản pháp luật có liên quan đến kế toán cho DN (sau đây gọi chung là VAS), Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam đã tích hợp mật thiết vào cách thức vận hành của người quản lý, cách thức quản lý của cơ quan chuyên môn, cũng như cách đọc, hiểu và ra quyết định của chủ thể sử dụng BCTC. Theo đó, việc chuyển đổi áp dụng chỉ nguyên mẫu IFRS sẽ đặt ra nhiều thách thức lớn.
Các thách thức này được minh họa ở Bảng 1 theo nhóm đối tượng và các quy định cần phải tuân thủ tương ứng liên quan đến thông tin kế toán, tài chính.
Bảng 1: Mức độ thách thức khi áp dụng IFRS theo nhóm DN.
Thách thức đầu tiên và có thể lớn nhất là từ đặc thù mang tính kỹ thuật của lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm. Các quy định IFRS ở lĩnh vực này được đánh giá thuộc loại phức tạp nhất và có yêu cầu cao về hệ thống thông tin, dữ liệu, quản trị rủi ro, mô hình tính toán và dự báo và hiện nay, có khoảng cách lớn với VAS. Việc chuyển đổi IFRS có thể ảnh hưởng lớn đến thông tin quản lý tăng trưởng tín dụng, an toàn hệ thống ngân hàng và công tác điều hành chính sách tiền tệ, ở cả phạm vi DN và nền kinh tế. Với bối cảnh nhiều biến động hiện nay và kinh nghiệm triển khai ở một số nước với ngành bảo hiểm, việc cần có lộ trình chuyển đổi thận trọng hơn với sự giám sát từ cơ quan quản lý về lĩnh vực này được đánh giá là phù hợp.
Thách thức thứ hai và là thách thức mặc định (đương nhiên tồn tại) của hầu hết các quốc gia là khoảng cách giữa IFRS và các quy định của cơ quan Thuế. Tại VN, các khác biệt vốn đã tồn tại khi DN áp dụng VAS cho mục tiêu kế toán và việc tính thuế theo quy định của cơ quan Thuế. Việc áp dụng IFRS sẽ nới rộng hơn nữa những khác biệt trước đây và tạo ra những khoảng cách mới cần phải thuyết minh và giải trình nhiều hơn với cơ quan Thuế sau này.
Thách thức thứ ba và là thách thức chính yếu, cần sự quyết tâm xử lý nhiều nhất, bao gồm:
Bảng 2: Khoảng cách giữa IFRS và VAS.
Với hai thách thức chính yếu trên, ông có gợi ý giải pháp cơ bản nào cho vấn đề này không?
Quan sát việc triển khai IFRS ở các quốc gia, tôi đánh giá hai thách thức chính yếu trên của VN là tương đối tương đồng với một số nước, chỉ khác ở mức độ và bối cảnh khi xét khoảng cách khá xa giữa quốc tế và VN hiện nay. Trong số các giải pháp đang được đánh giá, có thể có hai nhóm giải pháp cơ bản sau:
Giải pháp thứ nhất là yêu cầu việc triển khai IFRS chỉ được cho phép với BCTC hợp nhất, không cho phép với BCTC riêng và khi đã lựa chọn áp dụng IFRS cho BCTC hợp nhất thì đó là BCTC hợp nhất duy nhất có giá trị pháp lý luật định.
Việc chỉ cho phép áp dụng IFRS với BCTC hợp nhất vẫn đảm bảo được mục tiêu và lợi ích cốt lõi của việc áp dụng IFRS do đây đương nhiên là báo cáo phản ánh một cách toàn diện và đầy đủ nhất của tập đoàn khi DN có các công ty con, trong khi sẽ giúp tránh được thách thức lớn do yêu cầu tuân thủ pháp lý về kế toán và nghĩa vụ thuế trong việc tạo lập BCTC. Khi đó, DN chỉ phải tuân thủ theo chuẩn mực kế toán IFRS ở cấp độ tập đoàn, vốn không có tư cách pháp nhân. Tại từng công ty trong tập đoàn, các công ty vẫn đảm bảo tuân thủ các quy định pháp lý về BCTC khi tạo lập BCTC riêng của pháp nhân công ty, bao gồm VAS, các quy định kế toán cho DNNN (nếu áp dụng) và có thể có quy định của cơ quan Thuế.
Về kỹ thuật, việc chuyển đổi cho phép áp dụng IFRS được hiểu là sự chuyển đổi của VN sang mô hình kế toán “kép” (dual system) với hai loại BCTC. Khi đó DN cần duy trì hệ thống để lập hai loại báo cáo, trong đó BCTC hợp nhất được lập hoặc theo IFRS hoặc theo VAS, trong khi BCTC riêng bắt buộc phải theo VAS (không có lựa chọn khác). Cả hai báo cáo này đều có giá trị pháp lý độc lập và không thay thế cho nhau do phạm vi, mục tiêu và cơ sở pháp lý tạo lập là khác nhau. Ngoài ra, ý nghĩa “kép” có thể được hiểu trong cùng một nhóm DN vẫn sẽ tồn tại hai loại BCTC hợp nhất do DN được quyền tự quyết định áp dụng căn cứ và nhu cầu và nguồn lực của mình.
Việc lựa chọn tách bạch mạnh mẽ, dứt khoát sẽ tạo nên một làn ranh đỏ phân định rõ ràng, từ đó giúp DN đánh giá cẩn trọng khi tự đưa ra các quyết định áp dụng IFRS ở cấp độ hợp nhất. Bên cạnh đó, chủ thể sử dụng BCTC có thể chắc chắn đang sử dụng đúng báo cáo theo đúng mục đích của mình, vừa đảm bảo nguyên tắc thị trường tự do vừa đảm bảo lộ trình chuyển đổi có kiểm soát và hiệu quả. Kinh nghiệm quốc tế cũng cho thấy một số quốc gia trong Liên minh châu Âu như Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Áo, Ba Lan, Rumani hay như Thụy Sĩ, Nhật Bản cũng áp dụng mô hình “kép” tương tự.
Giải pháp thứ hai để triển khai IFRS thành công là yêu cầu công bố thông tin chuyển tiếp và minh bạch định danh IFRS, cụ thể:
Thứ nhất là yêu cầu cung cấp thông tin bổ sung để đối chiếu khác biệt giữa IFRS và VAS (reconciliation) hoặc thuyết minh các khác biệt chính của một số khoản mục trọng yếu trong hai năm sau năm đầu chuyển đổi. Việc này giúp duy trì tính so sánh khi chủ thể sử dụng BCTC vẫn có thể tiếp tục thu thập, sử dụng phần lớn các thông tin theo VAS trước đây ở phần thuyết minh bổ sung và tạo ra “khoảng đệm” để nâng cao năng lực (đào tạo, hệ thống, chính sách, quy trình) và nâng cấp cơ chế giám sát và tuân thủ.
Mặc dù giải pháp này có thể gây một sức ép lớn với DN trong giai đoạn đầu nhưng đây là sự lựa chọn của chính DN khi cân nhắc giữa lợi ích và chi phí mà IFRS mang lại theo cơ chế “cho phép”, thay vì “bắt buộc” của cơ quan quản lý. Về lâu dài và tổng thể nền kinh tế, áp dụng nguyên lý về chi phí cận biên giảm dần khi quy mô áp dụng tăng lên, chi phí của việc triển khai sẽ giảm dần do sự lớn mạnh và trưởng thành của hệ sinh thái cần thiết cho việc triển khai IFRS. Hệ sinh thái bao gồm chất lượng nhân sự, tài liệu kiến thức IFRS chuyên sâu, sự sẵn có và độ tin cậy của thông tin giá trị hợp lý, mô hình ước tính, đội ngũ chuyên gia, kinh nghiệm triển khai của DN tiên phong và rất đáng chú ý, là sự trợ giúp vượt trội ngày càng tăng của trí tuệ nhân tạo tạo sinh (GenAI). Ngoài ra, chi phí triển khai IFRS cũng sẽ được tối ưu hơn nữa khi được song hành với quá trình triển khai, nâng cấp ERP cũng như chuyển đổi số của DN.
Trong trường hợp, cơ chế “cho phép” không phát huy hiệu quả thực tế khi chính sách mới được ban hành, cụ thể là số lượng DN áp dụng IFRS chất lượng cao là thấp hơn so với mục tiêu, có thể cân nhắc thêm phương án “bắt buộc” áp dụng cho một số DN có đủ khả năng và nguồn lực để tạo ra đột phá thể chế và tính thực thi tiên phong, dẫn dắt.
Trường hợp cơ chế phát huy hiệu quả, cơ quan quản lý có thể đánh giá để chuyển sang cơ chế “bắt buộc” cho toàn bộ các DN trong cùng một nhóm đối tượng nhất định để giảm thiếu tối đa hoặc xóa bỏ các vấn đề về tính so sánh giữa các DN. Ngoài ra, cũng nên cân nhắc việc thông báo trước một lộ trình tiến tới cơ chế “bắt buộc” cho thị trường, mặc dù việc này là tương đối khó khăn, để tạo ra tính định hướng, rõ ràng giúp chủ thể tạo lập và sử dụng BCTC tự xây dựng lộ trình một cách hiệu quả.
Thứ hai là yêu cầu công bố thông tin minh bạch để định danh rõ ràng trên hệ thống công bố thông tin về DN áp dụng IFRS và BCTC lập theo IFRS cũng như yêu cầu phải thuyết minh thông tin trên BCTC với tuyên bố tuân thủ IFRS. Có thể đề cập ngay chú thích “được lập theo IFRS” trên tiêu đề BCTC để các chủ thể sử dụng dễ dàng xác định, thu thập và đánh giá thông tin.
Việc lựa chọn mô hình kép về kế toán và nhất là chỉ cho phép áp dụng IFRS với các nhóm đối tượng giới hạn, đáp ứng được các tiêu chí cụ thể mà không áp dụng cho toàn bộ, ví dụ như toàn bộ các công ty niêm yết như kinh nghiệm phổ biến ở các nước, là một lựa chọn khó khăn nhưng cần thiết.
Đó là bài toàn khi phải cân bằng giữa “lợi ích” của việc đạt được tính so sánh, tính đồng nhất của thông tin trên thị trường và “chi phí” của việc triển khai quá lớn cho quá nhiều số lượng DN, trong đó có nguồn lực triển khai, cơ chế giám sát tuân thủ. Quan trọng nhất, việc đảm bảo chất lượng của BCTC tránh chỉ mang tính hình thức, định dạng mà bản chất chưa tuân thủ theo IFRS. Đó cũng là một bài toán khi so sánh giữa hai phương án, sẽ không cố gắng triển khai nguyên mẫu IFRS cho nhiều đối tượng khi chưa có cơ chế giám sát tuân thủ hiệu quả và phương án đẩy nhanh hơn nữa sự phát triển của VAS lên VFRS, tiệm cận IFRS.
Lựa chọn chỉ cho phép áp dụng IFRS với các nhóm đối tượng giới hạn, đáp ứng được các tiêu chí cụ thể sẽ cần chấp nhận một thách thức về tính so sánh. Tuy nhiên, cá nhân tôi đánh giá đó có thể là lựa chọn phù hợp, tối ưu khi đi kèm với giải pháp công bố thông tin chuyển tiếp, định danh IFRS rõ ràng, nhất là trong bối cảnh khác biệt lớn giữa IFRS và VAS hiện nay. Quan trọng hơn, phải xét yêu cầu phải đổi mới nhanh, cho phép DN Việt Nam bắt kịp với thế giới về kế toán và mục tiêu nâng hạng thị trường chứng khoán.
Các giải pháp đưa ra ở trên đã có thực tiễn ứng dụng tại nhóm nước đã phát triển và các nước trong khu vực được minh họa ở Bảng 3 dưới đây:
Bảng 3: Triển khai áp dụng IFRS cho DN niêm yết ở các khu vực pháp lý.
Ông có nhắc đến quan ngại của người quản lý DN do việc áp dụng IFRS có thể tạo ra những thay đổi bất ngờ, nhiều khi là trọng yếu, trong kết quả kinh doanh và tình hình tài chính của DN. Ông có thể chia sẻ thêm về giải pháp để giải quyết vấn đề này không?
Đây có thể là rào cản “vô hình” lớn nhất khi áp dụng IFRS, không chỉ ở VN mà cũng tương đối phổ biến ở các nước trên thế giới. Quan ngại này là có cơ sở khi chủ thể sử dụng BCTC sẽ đặt câu hỏi về năng lực điều hành và trách nhiệm của người quản lý cho bất kỳ thay đổi thông tin tài chính của DN.
Việc áp dụng một hệ quy chiếu mới là IFRS tất yếu sẽ làm thay đổi thông tin số liệu, thuyết minh trên BCTC do thực tế hoạt động kinh doanh khách quan của DN sẽ được hiểu, được diễn giải và được thông tin theo một cách mới. Ngoài ra, trong quá trình “kiểm tra sức khỏe” toàn diện thường được tiến hành khi lần đầu chuyển đổi, những góc khuất của DN đã tồn tại từ lâu sẽ bộc lộ rõ nét hơn khi được đặt trong khoảng cách lớn giữa tiêu chuẩn kế toán VN hiện hành và IFRS. Theo đó, các điều chỉnh làm thay đổi thông tin tài chính là lớn hơn, thậm chí có thể là bất ngờ cho chủ thể sử dụng BCTC.
Các giải pháp cho vấn đề này có thể bao gồm:
Việc triển khai Đề án áp dụng IFRS là một bài toán lớn, có các lựa chọn thể chế khác nhau giữa các quốc gia. Với bối cảnh VN và với những phân tích trên đây, ông có thể đưa ra thông điệp trọng tâm và kỳ vọng của mình?
Về giải pháp trọng tâm, đó là việc cho phép áp dụng IFRS với BCTC hợp nhất cho nhóm DN tiên phong, đáp ứng được các tiêu chí nhất định cũng như yêu cầu công bố thông tin có tính chuyển tiếp và minh bạch định danh IFRS. Việc này cũng nhất quán với phương án tiếp cận theo Đề án 345 trước đây khi đặt trong bối cảnh hiện nay.
Với chủ thể sử dụng BCTC, đó là việc nâng cao kiến thức, năng lực về IFRS để không chỉ đón nhận tích cực sự thay đổi về thông tin tài chính theo IFRS mà còn có thể đặt ra yêu cầu cao hơn với người quản lý DN trong việc lập BCTC theo chuẩn IFRS để đáp ứng nhu cầu thông tin của mình. Ngoài ra, cần chủ động thích thích ứng với bối cảnh thông tin IFRS và VAS khi sử dụng để tận dụng tối đa lợi ích mà thông tin IFRS mang lại khi xét đến nỗ lực nhiều hơn khi đánh giá tính so sánh của thông tin.
Với người quản lý DN, đó là nỗ lực vượt qua “rào cản vô hình” khi áp dụng lần đầu IFRS cũng như đầu tư nguồn lực đảm bảo tuân thủ cho hệ thống báo cáo kép và truyền thông chủ động. Với cơ chế “cho phép”, việc áp dụng IFRS là quyền tự quyết của DN khi cân nhắc giữa chi phí và lợi ích của việc triển khai IFRS trong ngắn hạn và dài hạn.
Tôi tin tưởng rằng khi có sự chung tay, hưởng ứng và quyết tâm hành động của các chủ thể có liên quan, việc triển khai thành công và thu được lợi ích lớn của Đề án áp dụng IFRS là sớm trở thành hiện thực, giúp nâng cao tính minh bạch của thị trường, hình ảnh và vị thế của quốc gia, DN cũng như mở rộng, thu hút vốn đầu tư quốc tế.