Theo bà Trần Thị Thúy Ngọc, Phó Tổng Giám đốc, Lãnh đạo ngành Dịch vụ tài chính, Deloitte Việt Nam, để trung tâm tài chính quốc tế thu hút các đối tác và hoạt động hiệu quả, cần xây dựng thể chế chính sách nhất quán và minh bạch, tạo lòng tin cho các nhà đầu tư kinh doanh hàng đầu trên thế giới.
Bà đánh giá như thế nào về việc Quốc hội thông qua Nghị quyết về Trung tâm tài chính quốc tế ở thời điểm này? So với thời điểm thành lập trung tâm tài chính quốc tế ở các nước khác, Việt Nam có lợi thế và bất lợi gì?
Vào cuối tháng 6 vừa qua, Quốc hội đã phê duyệt Nghị quyết về Trung tâm tài chính quốc tế (TTTCQT) tại Việt Nam. Trong quá trình trao đổi tại kỳ họp Quốc hội vừa qua, phần đông đại biểu đều đánh giá các cơ chế chính sách thành lập TTTCQT tại Việt Nam có tính đột phá. Trong đó, các ưu đãi thuế, đất đai, hạ tầng, nhân lực đều có sức hấp dẫn và sẵn sàng cạnh tranh với các trung tâm trong khu vực và trên thế giới.
Đi sau các quốc gia phát triển với các TTTCQT hiện đại và lâu đời, Việt Nam có thể học hỏi từ các mô hình thành công, rút kinh nghiệm từ các thực tiễn vận hành, qua đó xác định chính xác vai trò, vị thế của mình trên bản đồ thế giới. Nằm trong khu vực châu Á có tốc độ phát triển và năng động nhất hiện nay, Việt Nam có “cơ hội vàng” để ghi dấu ấn, xác lập một trung tâm hiện đại nhưng mang bản sắc riêng.
Tham khảo Nghị quyết, dễ dàng nhận thấy Việt Nam dành mức độ ưu tiên cao cho việc thành lập các loại sàn giao dịch – đây chính là nền tảng giao dịch tại TTTCQT. Sàn giao dịch có thể là điểm đột phá để mở rộng các sản phẩm đầu tư tài chính tại Việt Nam, từ đó thu hút dòng vốn toàn cầu.
Không có nguồn lực đầu tư dư dả trong giai đoạn đầu – giai đoạn vượt ngưỡng thu nhập trung bình, Việt Nam mặt khác tập trung phát triển các ngành mũi nhọn, tập trung chuyển đổi năng lượng và phát triển năng lượng tái tạo, đã đủ sức tạo nên một thị trường ngách hấp dẫn và giữ chân các nhà đầu tư, định chế tài chính và các bên tham gia. Dựa trên nền tảng là những giao dịch thực, hệ sinh thái các sản phẩm và dịch vụ tài chính khác theo đó sẽ được xây dựng và phát triển.
Mỗi TTTC trên thế giới đều có một số thế mạnh riêng như quản lý tài sản (Singapore), giao dịch ngoại hối (London). Nhìn lại thị trường hàng hóa của mình, Việt Nam tự hào có nhiều mặt hàng nông sản chủ lực dẫn đầu thế giới về sản lượng như hồ tiêu, ngoài ra là cà phê (#2), hạt điều (#3), cao su (#4), gạo (#5) (theo FAO, 2023). Kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm nông sản đều duy trì mức tăng trưởng hai chữ số.
Ngoài ra, Việt Nam có vị trí chiến lược gần nhiều tuyến vận tải biển quốc tế và đường bờ biển dài, dễ dàng tiếp cận mạng lưới vận tải toàn cầu. Mạng lưới 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) bao phủ tới 87% nền kinh tế toàn cầu, cùng 23 đối tác chiến lược cũng giúp thị trường xuất khẩu các mặt hàng nông sản được mở rộng với nhiều mức thuế ưu đãi.
Dù vậy, vẫn sẽ có nhiều khó khăn dành cho thị trường hàng hóa, tập trung vào nông sản. Các sản phẩm xuất khẩu không có tính cạnh tranh cao do chủ yếu là mặt hàng thô, hàm lượng chế biến thấp. Việc tham gia vào mạng lưới FTA vừa mở ra cơ hội nhưng cũng đặt ra bài toán truy xuất nguồn gốc, tuân thủ các quy định về phát triển bền vững.
Ngành nông nghiệp còn dễ bị tổn thương trước biến đổi khí hậu, chưa kể đến sự cạnh tranh từ một số quốc gia như Thái Lan (gạo), Brazil (cà phê) và Indonesia (cao su).
Trung tâm tài chính quốc tế đặt tại TP.HCM và Đà Nẵng có cả lợi thế và bất lợi như thế nào? Làm cách nào để phát huy lợi thế của hai vị trí này?
Một TTTCQT nhưng triển khai tại hai địa điểm với chức năng, vai trò phân công rõ ràng, phát huy thế mạnh của từng nơi là điểm đã được làm rõ khi Nghị quyết được thông qua. Trong khi tại TP HCM sẽ tập trung phát triển thị trường vốn, quản lý tài sản, quản lý, quỹ, bảo hiểm, fintech, tài chính xanh, tín chỉ carbon, sàn giao dịch chuyên biệt thì tại Đà Nẵng, trung tâm sẽ tập trung tài chính cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua đổi mới sáng tạo, các tổ chức, cá nhân không cư trú, thử nghiệm có kiểm soát các loại tài sản mới như tài sản số, tiền số, thu hút đầu tư start up phục vụ các giải pháp tài chính phục vụ đời sống tiêu dùng, thương mại, logistics.
Việc thành lập chỉ một TTTCQT có điểm thuận lợi dễ thấy là hỗ trợ dòng vốn lưu thông một cách thuận lợi giữa hai địa điểm. Giảm thiểu thời gian “đo ni đóng giày” quy định, hai trung tâm được chủ động mở cửa đón dòng vốn ngoại tệ nhưng vẫn bảo vệ ở mức độ nhất định với đồng nội tệ.
Khi hoạt động, hai thành phố này cũng được đặt dưới sự giám sát chung của một khung pháp lý được thiết kế riêng cho TTTCQT. Một khung pháp lý chung, mang tính nguyên tắc và ổn định cao cho hai thành phố sẽ vừa giao quyền chủ động cho cơ quan quản lý thị trường tài chính, vừa giúp TTTCQT tránh lạc hậu thông qua việc chủ động cập nhật xu hướng và nâng cao tính linh hoạt song song với mức độ an toàn. Từ đó, từng thành phố có thể khai thác tối đa nguồn lực sẵn có và phát huy tiềm năng của mình.
Bên cạnh việc học hỏi kinh nghiệm từ các mô hình lâu đời, việc phát triển cơ sở hạ tầng và mức độ phát triển của ngành tài chính là hai yếu tố quan trọng tạo dựng một TTTCQT thành công. Đây đồng thời cũng là hai trụ cột trong Chỉ số trung tâm tài chính toàn cầu (Global Financial Centre Index – GFCI).
Trong những công nghệ hiện nay, AI được Deloitte đánh giá là một trong những công nghệ mang tính đột phá nhất trong ngành ngân hàng và dịch vụ tài chính. Dự kiến, AI sẽ giúp lợi nhuận của ngành ngân hàng toàn cầu tăng khoảng 9% trong vòng 5 năm tới.
Theo một cuộc khảo sát gần đây của Deloitte đối với các lãnh đạo trong lĩnh vực CNTT và kinh doanh, 86% đơn vị áp dụng AI trong dịch vụ tài chính cho biết AI sẽ đóng vai trò rất quan trọng hoặc cực kỳ quan trọng đối với sự thành công của doanh nghiệp trong hai năm tới.1
Đó là chưa kể việc ứng dụng AI có thể giúp củng cố cơ sở hạ tầng nhằm lập kế hoạch, ứng phó và phục hồi một cách nhanh chóng và quyết đoán trước các thảm họa thiên nhiên. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu là mối quan tâm hàng đầu của các nhà lãnh đạo, AI có thể giúp tiết kiệm khoảng 70 tỷ USD thiệt hại cơ sở hạ tầng hàng năm đến năm 2050, báo cáo mới nhất của Deloitte cho biết.
Theo bà, những điểm cần lưu ý trong xây dựng và vận hành trung tâm tài chính quốc tế sắp tới là gì?
Nghị quyết thành lập TTTCQT đánh dấu một cột mốc đặc biệt, mở ra cánh cửa để Việt Nam bứt tốc thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, đồng thời tạo nền tảng vững chắc để đạt tăng trưởng hai con số từ năm 2026-2045.
Nghị quyết thành lập TTTCQT với các chính sách đặc thù từ cơ chế điều phối, khung pháp lý, chính sách ngoại hối đến hệ thống tư pháp, tất cả hướng đến việc xây dựng một TTTC hiện đại, tiệm cận chuẩn mực quốc tế nhưng cũng phù hợp với bối cảnh Việt Nam.
Trong quá trình xây dựng TTTCQT, chúng ta sẽ cần lưu tâm đến các trụ cột, các bài toán lớn trong lĩnh vực tài chính về gia tăng quy mô và đa dạng hóa danh mục sản phẩm tài chính, công nghệ và đổi mới sáng tạo (Fintech, AI, blockchain…), yêu cầu hoàn thiện thể chế với chính sách đột phá, xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực.
Nhìn lại chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm giai đoạn 2021 – 2030, thể chế, nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng cũng là những đột phá chiến lược mà Việt Nam cần bám sát trong giai đoạn phát triển tiếp theo nhưng ở quy mô lớn hơn. Câu chuyện kêu gọi các đối tác tham gia thị trường thành công hay không một phần lớn đòi hỏi ở thể chế chính sách nhất quán và minh bạch, tạo lòng tin cho các nhà đầu tư kinh doanh chuyên nghiệp hàng đầu trên thế giới.
Năm 2024, ASEAN tiếp tục khẳng định vị thế của một trung tâm đầu tư chiến lược tại châu Á khi vốn đầu tư tiếp tục tăng và đạt mức kỷ lục 235 tỷ USD. Theo UNCTAD, tổng vốn FDI vào ASEAN dự kiến trung bình đạt gần 300 tỷ USD mỗi năm trong giai đoạn 2024 – 2030, trong đó Việt Nam là một trong những điểm đến yêu thích.
Quá trình xây dựng TTTCQT không phải một sớm một chiều. Những bước đi đầu tiên thể hiện qua Nghị quyết đang đặt viên gạch vững chắc cho công trình tham vọng này. Điều quan trọng tiếp theo là cụ thể hóa các quy định trong Luật, Nghị định, thông tư hướng dẫn, triển khai thận trọng mà linh hoạt và liên tục hiệu chỉnh theo sát thực tiễn.
Nếu làm được điều đó, TTTCQT Việt Nam sẽ không chỉ là điểm đến của dòng vốn quốc tế mà còn là động lực nâng tầm toàn bộ hệ thống tài chính và kinh tế đất nước trong những thập kỷ tới.